Siêu âm dạ dày là một xét nghiệm hữu ích trước khi gây mê vì nó có thể quản lý nguy cơ hít phải các chất chứa trong dạ dày vào phổi trong quá trình gây mê và phẫu thuật.
Siêu âm dạ dày là một xét nghiệm cho kết quả nhanh chóng với độ tin cậy cao, cơ động, không xâm lấn và không gây biến chứng. Hình ảnh siêu âm dạ dày cho phép bác sĩ gây mê phân biệt giữa dạ dày đầy và rỗng, xác định trong dạ dày còn thức ăn hay dịch không và ước tính thể tích dịch dạ dày. Từ đó, bác sĩ có thể kiểm soát nguy cơ hít phải các chất chứa trong dạ dày, xác định thời gian thích hợp nhất để gây mê, lựa chọn loại thuốc mê và phương pháp quản lý đường thở hiệu quả trong khi làm phẫu thuật.
Siêu âm dạ dày thường được thực hiện trước khi gây mê cho những bệnh nhân có nguy cơ hít sặc cao. Họ bao gồm người mắc các bệnh lý gây chậm làm rỗng dạ dày như bán tắc ruột, hẹp môn vị, liệt ruột cơ năng, đái tháo đường, bệnh thận mãn tính, phụ nữ có thai, người béo phì, người cao tuổi…. Bên cạnh đó, các trường hợp phẫu thuật cấp cứu, bác sĩ không có thời gian để đợi dạ dày rỗng mà phải gây mê và phẫu thuật ngay, dễ gặp tình huống hít sặc nên siêu âm dạ dày để đánh giá nguy cơ, lựa chọn phương án xử trí là rất cần thiết.
Quá trình làm xét nghiệm khá nhanh, phù hợp cả với những ca cần cấp cứu khẩn cấp hoặc phải phẫu thuật càng sớm càng tốt.
Quy trình làm xét nghiệm như sau:
Bước 1: Siêu âm dạ dày ở tư thế ngửa
Để bệnh nhân nằm ngửa và cởi áo để lộ vùng thượng vị, có thể che ngực và vùng chậu. Bác sĩ sẽ đứng ở phía bên phải bệnh nhân và đối diện với máy siêu âm để tiện quan sát.
Sau đó, bác sĩ đặt đầu dò của máy siêu âm vuông góc với cơ thể, quét từ trái sang phải. Sau khi đã xác định vị trí của dạ dày, gan, tụy, động mạch mạc treo tràng trên, động mạch chủ bụng và tĩnh mạch chủ dưới, bác sĩ sẽ kiểm tra dạ dày và quan sát đặc điểm của bất kỳ chất nào chứa trong dạ dày.
Bước 2: Siêu âm dạ dày ở tư thế nghiêng phải
Sau khi đã thực hiện siêu âm dạ dày ở tư thế nằm ngửa xong, chuyển bệnh nhân sang tư thế nằm nghiêng bên phải để tiếp tục dùng đầu dò và quét. Vị trí này tạo điều kiện thuận lợi cho dòng chảy các chất trong dạ dày đến hang vị, làm tăng độ nhạy của siêu âm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đo thể tích dạ dày.
Kết quả siêu âm dạ dày được chia làm 3 mức độ như sau:
Nếu dạ dày chứa chất lỏng trong suốt, thể tích dịch dạ dày (đơn vị mililit) có thể được ước tính bằng cách đo CSA (diện tích mặt cắt ngang) của hang vị ngang với động mạch chủ. Thể tích dịch dạ dày được tính theo công thức Pelas như sau: 27 + (14,6 * CSA) – (1,28 * tuổi).
Kết quả cho ra nếu thể tích dịch dạ dày dưới 1,5 ml/kg được coi là bình thường, nguy cơ hít sặc thấp khi gây mê. Lượng dịch dạ dày trên 1,5ml/kg hoặc kết quả siêu âm dạ dày thuộc độ II thì đánh giá bệnh nhân bụng đầy, có nguy cơ hít sặc cao.