Nhiễm trùng (infection) là một hiện tượng đặc trưng bởi đáp ứng viêm đối với sự hiện diện hoặc sự xâm nhập của các vi sinh vật vào các tổ chức của vật chủ bình thường vốn vô trùng. Du khuẩn huyết (bacteremia) là sư hiện diện của các vi khuẩn sống trong máu. Có 3 dạng du khuẩn huyết:
Hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (Systemic Inflammatory Reponse Syndrome-SIRS): là một đáp ứng viêm toàn thể đối với nhiều kích tác lâm sàng nặng nề khác nhau được đặc trưng bởi sự hiện diện của ít nhất 2 trong các tiêu chuẩn sau:
Các yếu tố nguy cơ
+ Người già, trẻ sơ sinh/đẻ non.
+ Người sử dụng thuốc ức chế miễn dịch, như sử dụng corticoid kéo dài, các thuốc chống thải ghép, hoặc đang điều trị hóa chất và tia xạ.
+ Người bệnh có bệnh lý mạn tính, như tiểu đường, HIV/AIDS, xơ gan, bệnh van tim và tim bẩm sinh, bệnh phổi mạn tính, suy thận mạn.
+ Người bệnh cắt lách, nghiện rượu, có bệnh máu ác tính, giảm bạch cầu hạt.
+ Người bệnh có đặt các thiết bị hoặc dụng cụ xâm nhập như đinh nội tủy, catheter, đặt ống nội khí quản…
Các tác nhân gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp
Cơ chế bệnh sinh của nhiễm khuẩn huyết
Một số lưu ý khi cấy máu
Thời gian lấy máu: Thời gian lấy máu tốt nhất để phục hồi tối đa vi sinh vật tồn tại trong máu là trong vòng 1 giờ kể từ khi sốt hoặc rét run, vì vi sinh vật sẽ phát triển và xâm nhập nhanh vào máu trong khoảng thời gian này. Thông thường nên lấy máu trong khoảng 30-60 phút sau cơn sốt hoặc rét. Li và cộng sự cho thấy không có sự khác biệt về khả năng phục hồi vi sinh vật khi lấy tất cả các mẫu máu của một bệnh nhân trong cùng một thời diểm hay lấy máu nhiều lần sau một khoảng thời gian nhất định cho tới 24 giờ. Thompson và cộng sự cho rằng tỷ lệ dương tính có quan hệ tới thời điểm sốt cao nhất.
Thể tích cấy máu: Theo CLSI M47-A: Lấy đúng thể tích máu vô cùng quan trọng trong việc phát hiện nhiễm trùng huyết. Đối với người lớn thể tích máu khuyến cáo nên lấy tại mỗi vị trí tiêm là 20-30ml. Nguyên nhân là vì với thể tích máu từ 20-30mL, số lượng vi sinh vật tồn tại trong mẫu sẽ tăng tỷ lệ thuận với thể tích máu được lấy. Đối với trẻ em không nên lấy máu quá 1% tổng thể tích máu của bệnh nhân.
Số lượng bộ cấy máu: Bộ chai cấy máu được định nghĩa là một bộ gồm những chai cấy máu được lấy máu từ một vị trí tiêm. Nghiên cứu đầu tiên về số lượng chai cấy máu thích hợp được thực hiện bởi Washington vào năm 1975 cho thấy rằng khả năng phục hồi vi sinh vật đối với mẫu sử dụng 1 bộ (20ml máu/ bộ) là 80%, 2 bộ là 88% và 3 bộ là 99%. Vào năm 1983 Weinstein và cộng sự cũng thực hiện nghiên cứu tương tự và cho kết quả phục hồi vi sinh vật là 91% , đối với 1 bộ (15ml máu/ bộ) và 99% đối với 2 bộ. Hai nghiên cứu trên sử dụng phương pháp cấy máu cổ điển, trong khi Cockerill (2004) thực hiện nghiên cứu 163 mẫu bệnh trên hệ thống cấy máu tự động. Trong nghiên cứu này tỷ lệ phục hồi đạt 65 % đối với 1 bộ (20ml máu/ bộ), 80% với 2 bộ và 96% đối với 3 bộ. Nguyên nhân giải thích cho việc tỷ lệ phục hồi khi sử dụng hệ thống cấy máu thấp hơn so với phương pháp truyền thống là do việc sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân, tạp nhiễm và dương tính thật. Hiện tại CLSI khuyến cáo sử sụng 2-3 bộ cấy máu/ mẫu bệnh, không bao giờ được sử dụng chỉ một bộ bởi vì thể tích máu sẽ không đủ thể tích để phát hiện và khó giải thích kết quả.
Các vi khuẩn ngoại nhiễm có thể gặp
Loại trừ ngoại nhiễm